MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Chủ tịch BUSADCO kể chuyện công trình cấp quốc gia đặc biệt: Dự kiến 3 năm hoàn thành, 12 năm chưa tìm được công nghệ, ông chinh phục trong 65 ngày

Chủ tịch BUSADCO kể chuyện công trình cấp quốc gia đặc biệt: Dự kiến 3 năm hoàn thành, 12 năm chưa tìm được công nghệ, ông chinh phục trong 65 ngày

Người chèo lái con thuyền Busadco là Giáo sư ,Tiến sĩ, Viện sĩ danh dự - Anh hùng lao động Hoàng Đức Thảo, chủ tịch kiêm CEO Công ty - người đang sở hữu số lượng Bằng sáng chế Sở hữu trí tuệ nhiều nhất thế giới.

Con đường đến với khoa học – công nghệ của ông Thảo không bắt đầu trong phòng thí nghiệm, mà từ bùn đất, từ những tuyến cống ngập nước, từ những bờ kè bị sóng đánh bật từng lớp. Hơn hai thập kỷ đi qua hàng trăm công trường lớn nhỏ, ông nghiệm ra một điều: kỹ thuật có thể rất phức tạp, nhưng mục đích thì luôn giản dị – giúp đời sống người dân bớt khó.

Với ông, niềm tự hào không phải đến từ những sáng chế được vinh danh, mà từ khoảnh khắc nhìn thấy một con đường hết ngập, một bờ biển không còn bị xói lở, hay một di sản như Hồ Hoàn Kiếm được gìn giữ bền vững cho mai sau.

Những trải nghiệm thực tế ngoài công trường từ hệ thống thoát nước, đến các tuyến hạ tầng xuống cấp đã ảnh hưởng thế nào đến cách ông tiếp cận công việc nghiên cứu?

Nhìn lại hiện trạng hạ tầng kỹ thuật đô thị ở các đô thị Việt Nam, đặc biệt là TP.HCM và Hà Nội, có thể thấy chúng ta đang ở “đỉnh điểm” của nhiều vấn đề nan giải: kẹt xe, ô nhiễm môi trường, ngập nước,...

Đây không chỉ là điều mà giới chuyên gia, người làm nghề cảm nhận được, mà toàn xã hội và người dân đều đã nhìn thấy rõ. Điều đó cho thấy chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới mà các vấn đề này buộc phải được giải quyết.

Tôi lấy ví dụ, muốn giải được bài toán ngập nước phải có một góc nhìn tổng thể, vì ngập không chỉ do mưa lớn mà là sự kết hợp của các yếu tố như nước mưa, nước thải, triều cường và lũ thượng nguồn đổ về. Nếu bốn yếu tố này xảy ra cùng lúc, hệ thống thoát nước sẽ bị quá tải ngay lập tức. Do đó, muốn xử lý ngập hiệu quả, phải xem xét đồng thời cả bốn yếu tố này. Đây là một tổ hợp tính toán cần phải được giải quyết đồng bộ.

Chính vì có quá nhiều yếu tố tác động, nên câu hỏi “vì sao bị ngập” rất khó trả lời ngay. Muốn nói cụ thể, bắt buộc phải từ điều tra, khảo sát các điều kiện tự nhiên, xã hội, định hướng mục tiêu chiến lược và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Từ kết quả khảo sát và đánh giá hiện trạng hạ tầng kỹ thuật, hiện trạng quy hoạch, đầu tư, năng lực vận hành… đánh giá đặc thù của từng vùng miền, từng lưu vực nhằm giải quyết đồng bộ khép kín, toàn diện và cụ thể.

Theo tôi, khi đã bước sang một giai đoạn mới thì không thể tiếp tục tư duy và làm theo lối truyền thống. Phải có khảo sát, đánh giá lại toàn bộ hiện trạng, từ đó nhận diện các vấn đề cần xử lý, không chỉ giải quyết những chuyện trước mắt mà còn hướng đến các giải pháp lâu dài, bền vững.

Khảo sát các tuyến kè, đê và vùng ven biển trong năm qua, điều gì khiến ông cảm nhận rõ nhất rằng thiên nhiên đang “thay đổi luật chơi”?

Nhìn vào những trận bão trong năm 2025 từ bão số 10 đến số 14, có thể thấy tác động của tự nhiên lên khu vực ven biển, ven sông đang ở mức báo động. Nhiều đoạn kè, đê phòng hộ bị xói lở, thậm chí bị phá vỡ. Những gì xảy ra ngoài thực địa cho thấy sóng, gió và dòng chảy, cộng thêm nước biển dâng, mưa lớn kéo dài, lũ thượng nguồn đổ về…tạo ra một áp lực rất lớn lên đường bờ.

Từ các dự án tôi khảo sát, có thể thấy rõ mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng : sóng, gió và dòng chảy biến đổi tác động vào bờ, và nếu bờ chưa được bảo vệ bằng hệ thống kè kiên cố vững chắc thì nước biển sẽ tràn vào đất liền. Thêm vào đó, tác động sóng gió, dòng chảy tạo ra các dòng ven bờ, tác động liên tục gây ra phá vỡ kết cấu, sạt lở. Vì vậy những tuyến kè truyền thống, kè chắp vá, chưa được đầu tư bằng công nghệ bền vững thường là nơi bộc lộ rõ nhất các hư hỏng.

Đây chính là những tác động môi trường mà các địa phương ven biển – ven sông đang phải đối mặt.

Nhưng cũng cần nói cho rõ: “môi trường” ở đây không chỉ là một khái niệm, mà là hai phạm trù khác nhau. Ở vùng ven biển – ven sông, môi trường gắn với thiên tai, với biến đổi khí hậu, với hệ thống đê điều – thủy lợi. Còn trong đô thị, môi trường lại gắn với hệ thống thoát nước, điều hòa và tiêu thoát.

Hai phạm trù này độc lập, nhưng không tách rời. Như tôi đã nói, chỉ cần mưa lớn trùng với triều cường kết hợp với lũ thượng nguồn thì hệ thống thoát nước đô thị sẽ chịu ảnh hưởng ngay lập tức. Còn khi thiên tai tác động trên phạm vi rộng, đó không chỉ là câu chuyện của một tuyến kè hay một hệ thống thoát nước, mà là bài toán tổng thể cần sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp.

Nhiều công nghệ trong lĩnh vực thoát nước, bảo vệ bờ sông, bờ biển có thể gặp rào cản vì “chưa có tiền lệ”. Theo ông, những bất cập này có thể giải quyết bằng cách nào?

Theo tôi, phải có một cuộc cách mạng kỹ thuật. Cuộc cách mạng kỹ thuật ở đây là phải cải cách từ quy chuẩn, tiêu chuẩn nhà nước, quốc gia. Bởi theo chúng tôi là các quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện nay đã lỗi thời so với yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Tôi nói thế này để thấy rõ hơn: quy chuẩn, tiêu chuẩn Việt Nam hiện nay đang sử dụng hầu hết đều mang từ nước ngoài về đăng ký lại, chưa đúng điều kiện Việt Nam, chưa đúng với “Công nghệ Việt – Trí tuệ Việt – Nhu cầu Việt”.

Vì vậy sự cần thiết phải có hướng nghiên cứu, tính toán mới thích ứng với tình hình. Theo tôi, muốn có tiêu chuẩn phù hợp thì trước hết phải tiến tới làm chủ sở hữu công nghệ, từ đó mới có cơ sở xây dựng được quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp.

Trên thực tế, các quy chuẩn và tiêu chuẩn chủ yếu thiết kế cho bão cấp 10, 11, 12. Nếu vượt mức đó thì được coi là “bất khả kháng”. Những trận bão vừa qua cho thấy thực tế đã vượt quá giới hạn tính toán của nhà tư vấn và thẩm định, quản lý…

Khi thiên tai thay đổi như vậy mà quy chuẩn, tiêu chuẩn vẫn giữ nguyên thì rõ ràng là bất khả kháng. Bất khả kháng ở đây là nếu chúng ta không cải cách về công nghệ và không có làm cải cách về quy chuẩn, tiêu chuẩn thì rõ ràng không quy được ai trách nhiệm cả khi xảy ra hậu quả.

Ở đây, nhà tư vấn, thẩm định và quản lý cũng không sai, vì họ buộc phải bám theo quy chuẩn, tiêu chuẩn để làm căn cứ thực hiện. Vì vậy, qua những trận bão lũ, thiên tai vừa qua đã đặt ra cho các ngành, đặc biệt là ngành thủy lợi, các ngành về hệ thống nước mưa, thoát nước thải đô thị một bài toán phải giải quyết rất lớn.

Thưa ông, kè bảo vệ bờ hồ Hoàn Kiếm là công trình đặc biệt cả về kỹ thuật lẫn yếu tố văn hóa – lịch sử. Ông có thể chia sẻ hành trình đưa công nghệ của Busadco vào dự án này từ khi đề xuất đến lúc triển khai thực tế?

Công trình mà kè bảo vệ bờ Hồ Hoàn Kiếm là công trình mà Thủ tướng Chính phủ đã có chủ trương đầu tư từ năm 2007 nhằm mục đích kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.

Trước đó, chỉ tính khoảng 3 năm đến năm 2010 là phải xong. Tuy nhiên, đến năm 2019 thì vẫn còn loay đưa ra rất nhiều loại hình công nghệ, kể cả công nghệ trong nước và nước ngoài.

Rất nhiều tổ chức chức năng xuất bản nhưng vẫn không phù hợp bởi không phải là hoàn toàn yếu tố giải pháp kỹ thuật đơn thuần theo nguyên lý kết nối tường chắn đất và chống xói lở mà còn là yếu tố di sản văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh, thậm chí là cả tâm linh...

Chính vì vậy mà công nghệ nào muốn làm kè bảo vệ Hồ Hoàn Kiếm đều phải đáp ứng được tất cả những yêu cầu vô cùng đặc thù đó. Và may mắn là công nghệ của chúng tôi phù hợp với những điều kiện này, nên mới giải quyết được bài toán phức tạp của kè bảo vệ bờ hồ Hoàn Kiếm.

Tôi thật sự không quen biết ai, cũng chẳng có thần thế gì. Chúng tôi chỉ là một doanh nghiệp Khoa học công nghệ nghiên cứu ứng dụng ở “vùng sâu vùng xa” đi ra, may mắn là trong quá trình tìm hiểu, có người trong giới chuyên môn gợi ý: “Anh thử đề xuất công nghệ của anh xem sao”, rồi đưa cho tôi số điện thoại liên hệ. Tôi gọi, phía quận bảo cứ đến trình bày sơ bộ. Từ đó bắt đầu một quá trình làm việc rất dài, qua nhiều vòng thẩm định. Hơn một năm sau, chúng tôi được giao triển khai.

Thời gian là thi công giới hạn cho chúng tôi là 3 tháng nhưng chúng tôi chỉ thực hiện trong 65 ngày là hoàn thành. Và đặc biệt, Busadco đã chứng minh được tuổi thọ công trình trên 150 năm, đáp ứng yêu cầu của một công trình “nhóm A, cấp quốc gia đặc biệt”.

Ông có thể chia sẻ về thách thức lớn nhất trong quá trình triển khai một dự án và cách ông cùng đội ngũ đã khắc phục nó?

Có thể nói khó khăn, thách thức và thất bại lớn nhất của Busadco là khi làm kè phá sóng xa bờ bảo vệ bờ gây bồi tạo bãi tại biển Đông Cà Mau.

Thời điểm những năm 2018, 2019, 2020 ngập úng và bị xói lở rất lớn. Thậm chí, đã có những tổng kết, mỗi năm Cà Mau bị sạt lở diện tích khoảng 500 ha đất ven biển và rừng phòng hộ trôi ra biển. Trước nguy cơ đó, nhiều đơn vị, nhà khoa học trong và ngoài nước đã đến khảo sát, đề xuất công nghệ, trong đó có Busadco

Busadco đề xuất hai giải pháp công nghệ, trong đó chúng tôi đề xuất giải pháp phá sóng xa bờ, đặt cách bờ khoảng 300 mét. Mục tiêu của hệ thống này là giảm năng lượng sóng, gây bồi tạo bãi và bảo vệ bờ, qua đó hạn chế xói lở và ngăn đất trôi ra biển.

Ở biển Tây đoạn kè cách bờ 300 mét, kè dài 1,2 km, kè phá sóng xa bờ, bảo vệ bờ gây bồi tạo bãi, giá trị hợp đồng trên 20 tỷ đồng đã thi công, hoàn thành nghiệm thu và khai thác vận hành ổn định.

Tuy nhiên sang biển Đông, cũng là đoạn kè cách bờ từ 100 đến 300 mét tùy vị trí, dài 1,4 km với mục đích phá sóng xa bờ, gây bồi tạo bãi, bảo vệ rừng phòng hộ với giá trị hợp đồng là 37 tỷ đồng, chúng tôi gặp sự cố trong cơn bão số 3, gió cấp 9–10.

Tuyến kè vừa thi công xong, chưa nghiệm thu và chưa hoàn thành hợp đồng, đã bị bão đánh hư hỏng. Chúng tôi xác định sự cố xuất phát từ cả tác động của bão lẫn những yếu tố mà mình chưa lường hết.

Sau khi sự cố xảy ra, tỉnh Cà Mau đã tổ chức một cuộc họp với sự tham gia của các Sở, ban ngành, đơn vị tư vấn, đơn vị chủ đầu tư của tỉnh Cà Mau, do Phó chủ tịch tỉnh chủ trì.

Chúng tôi là những người chấp nhận rủi ro, mạo hiểm khi đưa công nghệ mới vào ứng dụng trong điều kiện địa chất, địa hình và khí tượng thủy văn rất phức tạp như ở đó, chúng tôi chưa lường hết được các rủi ro và tác động do thiên tai gây ra.

Vì vậy, ngay khi cuộc họp bắt đầu, tôi đã nhận trách nhiệm khắc phục, đề nghị tỉnh Cà Mau không xem xét truy cứu trách nhiệm các tổ chức và cá nhân có liên quan. Sau cuộc họp, Busadco quyết tâm, kiên trì, điều chỉnh cải tiến công nghệ, thi công lại hoàn thành 550 mét.

Từ 5 năm nay, công trình đã được khắc phục và đến giờ vẫn phát huy hiệu quả: vẫn phá được sóng, gây được bồi, bảo vệ được bờ. Tuy vậy, đó vẫn là một sự “trả giá” có thể nói là lớn nhất trong cuộc đời. Busadco và bản thân tôi, với tư cách tác giả, đã phải trả giá rất đắt cho những cống hiến, cho đam mê, khát vọng và mong muốn phụng sự công nghệ.

Khi bắt đầu nghiên cứu các giải pháp cho hạ tầng môi trường và phòng chống thiên tai, đâu là khó khăn lớn nhất mà ông gặp phải là kỹ thuật, cơ chế hay cách thuyết phục địa phương chấp nhận một phương án mới?

Nói về khó khăn thì rất nhiều, nhưng theo tôi, thách thức lớn nhất hiện nay xuất phát từ các hệ thống giải pháp và quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật truyền thống. Nhiều quy chuẩn đã được xây dựng từ lâu, đến nay không còn phù hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu cũng như yêu cầu phát triển hạ tầng và phòng chống thiên tai hiện nay.

Đây là bài toán đặt ra không chỉ cho các cơ quan quản lý mà còn cho đội ngũ khoa học, đặc biệt là những người làm trong lĩnh vực thủy lợi, môi trường, đầu tư – vận hành hệ thống thoát nước đô thị và phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tất cả đều cần đánh giá lại để tìm ra hướng đi đúng trong giai đoạn mới.

Ngoài ra, khó khăn còn đến từ nguồn lực, công nghệ và yêu cầu đồng bộ. Muốn hệ thống hạ tầng và phòng chống thiên tai vận hành hiệu quả, mọi khâu từ kỹ thuật, đầu tư, đến vận hành đều phải được phối hợp đồng bộ. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể khắc phục triệt để những hạn chế của giai đoạn hiện nay.

Busadco sẽ tiếp tục mở rộng thử nghiệm các vật liệu và công nghệ mới không, trong 5–10 năm tới, ông kỳ vọng những hướng nghiên cứu ấy sẽ đóng góp gì cho hạ tầng – môi trường Việt Nam?

Đương nhiên là chúng tôi có kế hoạch đó và thực tế nhiều năm nay chúng tôi luôn đi tiên phong trong đổi mới sáng tạo về bảo vệ bờ sông, bờ biển và xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị – nông thôn bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu.

Trước đây, chúng tôi tập trung chủ yếu vào giải pháp kè. Nhưng trong giai đoạn tới, định hướng của chúng tôi là hoàn thiện cả hệ thống đê, thích ứng với phòng chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu, đáp ứng với yêu cầu phát triển ngày càng cao. Một con đê đúng nghĩa không chỉ có kè, mà phải bao gồm mái đê, thân đê, cao trình đỉnh đê, kết cấu bền vững phía biển và phía bờ. Quy mô và tính chất của nó hoàn toàn khác, đòi hỏi một cách tiếp cận tổng thể đồng bộ, khép kín.

Song song với đó, chúng tôi đang đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ mới và vật liệu mới, theo hướng bê tông cốt phi kim tức là bê tông không dùng thép. Trong môi trường biển, môi trường kiềm, hay nước thải có axit, thép bị xâm thực rất nhanh và phá vỡ kết cấu…

Ngoài đê – kè, chúng tôi cũng đang phát triển loại hình, hệ thống nhà lắp ghép cốt phi kim, phù hợp cho vùng ven biển, vùng bão lũ, rừng núi, hay khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Mục tiêu là giảm tối đa việc đưa vật liệu như cát, đá, xi măng lên địa hình phức tạp, thay bằng cấu kiện lắp ghép gọn nhẹ. Giải pháp này cũng rất phù hợp cho các khu phố cũ, hẻm nhỏ cần cải tạo – nâng tầng với yêu cầu tải trọng nhẹ, thi công nhanh không ảnh hưởng đến các gia đình liền kề.

Về môi trường, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu các thiết bị và giải pháp vận hành hệ thống thoát nước, đặc biệt là các cửa xả nhỏ lẻ, van ngăn triều để xử lý tức thời các điểm ngập cục bộ trong đô thị.

Trong 5–10 năm tới, chúng tôi mong rằng có thể tiếp tục phát triển những hệ thống công nghệ đồng bộ và khép kín cho hạ tầng kỹ thuật Việt Nam từ đô thị đến nông thôn đặc biệt trong các lĩnh vực thoát nước mưa, nước thải và bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu.

Một trọng tâm khác là tiêu chuẩn, quy chuẩn. Đến nay, Busadco đã góp phần xây dựng 18 tiêu chuẩn quốc gia dựa trên các công nghệ do chính chúng tôi làm chủ sở hữu. Trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục đề xuất xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và làm cơ sở để nhà nước nghiên cứu hoàn thiện, nâng cấp thành quy chuẩn quốc gia để ứng dụng rộng rãi trong thực tế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển.

Chúng tôi rất mong có sự phối hợp, đồng hành, hỗ trợ của các nhà quản lý, các đơn vị tư vấn, các chuyên gia, các nhà khoa học chuyên ngành chuyên sâu, để công nghệ mới có thể được đánh giá đầy đủ, hoàn thiện và triển khai một cách chính danh qua đó đóng góp tốt hơn cho hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu.

Niềm vui lớn nhất đối với cá nhân ông khi làm việc tại Busadco và trong lĩnh vực của mình là gì?

Niềm vui lớn nhất của tôi, trước hết, là việc Busadco và cá nhân tôi có cơ hội được đóng góp vào hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu. Đó là niềm tự hào của một doanh nghiệp khoa học – công nghệ làm chủ được công nghệ của mình, tự nghiên cứu và đưa vào ứng dụng thực tế. Chứng minh được năng lực làm chủ thị trường, tự cường công nghệ.

Niềm vui thứ hai là nhìn thấy công nghệ Việt, thương hiệu Việt, trí tuệ Việt được khẳng định, không chỉ trong nước mà cả ở quốc tế. Chúng tôi không làm những công nghệ đang “hot” như AI hay bán dẫn…, nhưng lại giải quyết được những bài toán rất đời thường : kẹt xe, ô nhiễm, ngập nước, hạ tầng xuống cấp… những vấn đề đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Được góp phần giải quyết những điều đó, đối với chúng tôi, là một niềm tự hào thực sự.

Và có lẽ vinh dự lớn nhất là đã đóng góp công nghệ mới Busadco thực hiện công trình bảo vệ bờ Hồ Hoàn Kiếm. Hồ Hoàn Kiếm là di sản cấp Quốc gia đặc biệt, là trái tim của cả nước. Khách quốc tế, nguyên thủ quốc gia, ai đến Hà Nội cũng đi qua đó. Khi công trình hoàn thành, chúng tôi cảm thấy mình đã làm được một điều có ý nghĩa, một công trình “để đời” cho mai sau.

Là doanh nghiệp khoa học & công nghệ đầu tiên của cả nước, theo ông điều gì tạo nên bản sắc và sự khác biệt của Busadco so với các doanh nghiệp cùng lĩnh vực?

Busadco là một doanh nghiệp khoa học – công nghệ chuyên về nghiên cứu và ứng dụng. Chúng tôi không chuyển giao hay sao chép công nghệ của bất kỳ ai, mà tự nghiên cứu và tự thương mại hóa những sản phẩm do chính mình tạo ra.

Điểm khác biệt thứ hai là Busadco luôn bắt đầu từ những hạn chế và bất cập của thực tiễn. Từ đó, Busadco nghiên cứu, nhận diện rõ những hạn chế, bất cập đó để tìm ra một giải pháp công nghệ mới thay thế. Khi đã có giải pháp, Busadco lập tức triển khai các bước tiếp theo: ý tưởng, thử nghiệm, thí nghiệm, thực nghiệm, thiết kế kỹ thuật, xây dựng mô hình, thiết kế định hình, thiết kế mẫu, chế tạo mẫu, tổ chức kiểm định, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, thiết lập quy trình sản xuất sản phẩm, quy mô công nghiệp, tổ chức tiếp thị, lựa chọn thị trường và tìm kiếm, thương thảo với đối tác khách hàng.

Như vậy, Busadco thực hiện một quy trình đồng bộ, khép kín từ ý tưởng, giải pháp, công nghệ, đến sản xuất, tiếp thị, thương mại và ký kết hợp đồng.

Ở góc độ doanh nghiệp KHCN, ông kỳ vọng Nghị quyết 57 sẽ thay đổi điều gì trong quá trình đưa một sáng chế vào ứng dụng thực tế?

Với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao, phát triển văn hóa, con người và xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế vào năm 2030 và thành một nước phát triển, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc trên thế giới vào năm 2045, thì con đường duy nhất là đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số. Nhìn lại các cường quốc phát triển trên thế giới cũng như vậy, họ cũng phải bắt đầu từ công nghệ.

Nông nghiệp đã giúp chúng ta ổn định được cái ăn cái mặc; công nghiệp tạo ra thu nhập bình quân cao hơn và mang lại một phần tích lũy cho nền kinh tế. Nhưng để trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao và đạt được một nền văn minh hiện đại, thì chỉ có con đường đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ, bắt buộc là như vậy, không có con đường nào khác.

Tôi cho rằng Nghị quyết 57 đang dần đi vào cuộc sống. Cốt lõi của nghị quyết là đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học – công nghệ và chuyển đổi số. Từ góc nhìn của người làm khoa học, nghiên cứu và ứng dụng, tôi thấy rõ Luật Khoa học & Công nghệ mới cùng các nghị định đang khẩn trương sửa đổi rõ ràng và khả thi hơn trước rất nhiều.

Tuy nhiên, không thể chỉ sửa một Luật mà còn phải sửa nhiều luật có liên quan. Ví dụ như : luật về thuế, đất đai, quy hoạch, môi trường, đấu thầu, Sở hữu trí tuệ, Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn…thành một hệ thống Luật đồng bộ thì mới tổ chức thực hiện được, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Và một cái nữa là tôi cũng nghĩ rằng Đảng và Nhà nước đã nhận diện, quan trọng nhất là nó khả thi, tại sao nó khả thi? Là bởi vì khi đã nhận diện rồi, thì không còn là khẩu hiệu, không còn là hô hào nữa, mà là việc đưa được toàn bộ hệ thống chính trị thống nhất hành động, từ Trung ương đến địa phương, kết nối mật thiết ba nhà : Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp cùng hợp tác phát triển.

Đã đến lúc cần nói ít, làm nhiều và làm phải đánh giá được kết quả, phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tôi tin tưởng vào tương lai phát triển của đất nước.

Xin cám ơn những chia sẻ của ông! 

Khánh Linh
Thành Đạt

Tuyến nội dung Phụng sự đất nước tôn vinh những câu chuyện truyền cảm hứng về tinh thần phụng sự và đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, với sự đồng hành của Tập đoàn Tân Hiệp Phát.

Là doanh nghiệp nước giải khát thuần Việt, ngay từ những ngày đầu thành lập, Tập đoàn Tân Hiệp Phát đã xác định tầm nhìn dài hạn: không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn thúc đẩy ngành NGK của Việt Nam, tạo giá trị cho người tiêu dùng và xã hội. Qua hơn 3 thập kỷ, Tân Hiệp Phát không ngừng đầu tư và tái đầu tư 4 cụm nhà máy hiện đại bậc nhất Đông Nam Á tại các vùng kinh tế trọng điểm: Ninh Bình, Đà Nẵng, TPHCM, Cần Thơ… tạo hàng vạn việc làm trực tiếp và gián tiếp, tạo giá trị thịnh vượng cho chuỗi liên kết từ người nông dân trồng nguyên liệu đến nhà cung cấp, nhà phân phối; đóng góp hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm cho ngân sách nhà nước…

Bên cạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, Tân Hiệp Phát luôn quan tâm thực hiện trách nhiệm xã hội và coi đó là 1 trong những giá trị cốt lõi của doanh nghiệp. Công ty khởi xướng, đồng hành cùng các chương trình như Bền đam mê, Nối trọn yêu thương, Cùng con đi tiếp cuộc đời, Cùng em vững bước tương lai, Lục lạc vàng, bảo trợ các mái ấm, trao tặng học bổng cho học sinh nghèo, xây cầu, tặng nước vùng hạn mặn… nhằm góp phần mang tới cuộc sống tốt đẹp hơn và lan tỏa những giá trị tích cực đến cộng đồng.

Đối với Tân Hiệp Phát, trách nhiệm xã hội không chỉ là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, mà còn là cam kết lâu dài trong hành trình phụng sự cộng đồng – vì một Việt Nam thịnh vượng và nhân văn.

Bài: Khánh Linh/ Thiết kế: Thành Đạt

Nhịp Sống Thị Trường

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên