MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Thế giới lạc quan: Kinh tế Việt Nam sớm phục hồi

Việt Nam là nền kinh tế vượt qua đại dịch tốt hơn hầu hết các nền kinh tế Đông Nam Á và dự kiến tăng trưởng 6,3% trong năm nay.

Việt Nam vượt qua đại dịch Covid-19 tốt hơn hầu hết các nền kinh tế Đông Nam Á, với mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 2% trong năm 2020/21. Nó đạt 8% vào năm 2022, tăng từ mức cơ sở thấp và dự kiến sẽ đạt 6,3% vào năm nay, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới.

Bài viết trên tờ Banker nêu, Chính phủ Việt Nam quản lý nền kinh tế tăng trưởng mà không cần dùng đến các chương trình cứu trợ lớn, điều có thể làm tăng nợ công. Trên thực tế, nợ công đã giảm từ 44% GDP năm 2018 xuống còn khoảng 40% vào năm ngoái — một phần nhờ vào việc định vị lại con số GDP vào năm 2019. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp nhà nước và khu vực doanh nghiệp mới nổi phải đối mặt với những thách thức thực sự vào năm 2023.

Thế giới lạc quan: Kinh tế Việt Nam sớm phục hồi - Ảnh 1.

Ảnh minh hoạ.

Xuất khẩu của Việt Nam sẽ phục hồi

Việt Nam có nền kinh tế được thúc đẩy bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bắt đầu đổ vào Việt Nam từ một thập kỷ trước, bị thu hút bởi chi phí lao động thấp, dân số trẻ với 100 triệu người và nền kinh tế mở với 15 hiệp định thương mại tự do. Gần đây, nước này đang được coi là một cơ sở sản xuất thay thế cho Trung Quốc.

Năm 2022, giải ngân vốn FDI đạt 22,4 tỷ USD, giúp thúc đẩy xuất khẩu 371,8 tỷ USD và thặng dư thương mại 11 tỷ USD. Riêng xuất khẩu sang Mỹ đạt 109,4 tỷ USD (tăng 13,6%), xuất siêu 94,9 tỷ USD (tăng 17%).

Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ được cho là một điểm yếu, thể hiện trong những tháng cuối năm 2022 khi xuất khẩu bắt đầu chậm lại. Xuất khẩu tổng thể giảm so với cùng kỳ năm ngoái trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 1 năm 2023, nhưng đã tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái vào tháng 2 năm 2023.

Nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Andrea Coppola nói về triển vọng tăng trưởng 6,3% của đất nước cho năm 2023: "Về rủi ro, cách đây vài tháng, quan điểm của chúng tôi hơi ảm đạm hơn một chút. Sẽ có cơ hội để nâng cấp dự báo của chúng tôi vào tháng 5 - tháng 6". Theo chuyên gia, nguyên nhân lạc quan này là do số liệu việc làm, lạm phát và tiêu dùng tốt hơn mong đợi ở Mỹ.

Còn Michael Kokalari, nhà kinh tế trưởng tại VinaCapital, cho biết: "Có lẽ trong nửa cuối năm nay, chúng ta sẽ thấy các đơn đặt hàng bắt đầu phục hồi khi hàng tồn kho ở Mỹ cạn kiệt. Và một điều quan trọng khác đang xảy ra là khách du lịch Trung Quốc dự kiến sẽ quay trở lại trong nửa cuối năm nay; chỉ nhóm này sẽ thêm hai điểm phần trăm vào GDP, có thể nhiều hơn. Khách du lịch nước ngoài trước đây chiếm khoảng 10% GDP, trước Covid".

Với những căng thẳng đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam dự kiến sẽ vẫn là một thỏi nam châm thu hút vốn FDI từ các nguồn đang tìm cách đa dạng hóa sản xuất bên ngoài Trung Quốc. Theo một cuộc thăm dò năm 2019 do Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản thực hiện, khoảng 40% các công ty Nhật Bản đang tìm cách chuyển hoạt động sản xuất ra nước ngoài đã coi Việt Nam là lựa chọn ưu tiên của họ. Ngay cả các công ty Trung Quốc, đặc biệt là các công ty trong cụm chuỗi cung ứng cho lĩnh vực điện tử, đã và đang chuyển sản xuất sang Việt Nam.

Bên cạnh nền kinh tế định hướng xuất khẩu, Việt Nam còn có nền kinh tế định hướng tiêu dùng. Bên cạnh sự phụ thuộc vào Mỹ trong xuất khẩu, nền kinh tế Việt Nam còn chịu tác động từ đồng đô la Mỹ và lãi suất của Mỹ. Năm ngoái, tiền đồng mất giá gần 10% so với đồng USD, bất chấp nỗ lực giữ ổn định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, khiến dự trữ ngoại hối giảm 16%.

Lạm phát đạt 5% vào năm 2022, điều này cũng buộc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lãi suất trong ba tháng cuối năm 2022.

Đầu năm 2023, Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất và nâng trần tín dụng đối với các ngân hàng. Tuy nhiên, trang này nhận định phải mất một thời gian thì người tiêu dùng mới cảm thấy thoải mái khi mua một ngôi nhà mới.

Ông Kokalari cho biết: "Chính phủ hiện có hơn 20 tỷ USD quỹ cơ sở hạ tầng chưa giải ngân và có thể rút bớt một phần trong số dư để đáp ứng mục tiêu chi 30 tỷ USD cho phát triển cơ sở hạ tầng trong năm nay".

Đầu tư vốn cần thiết cho phát triển kinh tế

Tờ này cho rằng, Chính phủ sẽ cần nới lỏng các biện pháp tiết kiệm nếu các nhà hoạch định chính sách thực sự nghiêm túc trong việc đạt được các mục tiêu phát triển trong tương lai.

Ông Coppola của Ngân hàng Thế giới nói: "Nếu có một quốc gia nào mà tôi không thấy việc vay mượn liều lĩnh, thì đó chính là Việt Nam. Đây là quốc gia có cam kết COP26 về khử cacbon cho nền kinh tế của mình vào năm 2050, đặt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045".

Ông này nói tiếp: "Chúng tôi ước tính Việt Nam sẽ cần đầu tư tương đương 6,8% GDP mỗi năm từ nay đến năm 2040. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam có dư địa để vay mượn nhiều hơn". Với nợ công chỉ ở mức 40% GDP, có thể cho rằng nước này có nhiều dư địa để vay thêm và có thể dễ dàng làm như vậy.

Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp cũng có thể mạnh dạn hơn trong việc tìm nguồn tài trợ. Một nghiên cứu gần đây về 25 công ty hàng đầu của Việt Nam do S&P Ratings tại Singapore tổng hợp cho thấy 2/3 dựa vào nguồn vốn ngắn hạn. Ngay cả thị trường trái phiếu non trẻ ở Việt Nam cũng chỉ cung cấp các kỳ hạn tối đa là hai năm, không thể đóng vai trò là một nguồn vay dài hạn.

"Những gì chúng tôi tìm thấy đối với 25 công ty này là thời hạn nợ trung bình là từ một đến hai năm, bằng khoảng một nửa thời hạn nợ mà chúng tôi đã quan sát thấy đối với các công ty lớn ở những nơi khác ở Đông Nam Á, có xu hướng từ ba đến bốn năm", Xavier Jean, Giám đốc cấp cao về doanh nghiệp của S&P Ratings ở Singapore cho biết.

Các lựa chọn khác cho các tập đoàn Việt Nam là vay hợp vốn với các ngân hàng nước ngoài cũng như các ngân hàng địa phương, vốn đã trở nên phổ biến gần đây, hoặc phát hành trái phiếu của họ ở các thị trường phức tạp hơn như Singapore hoặc Thái Lan.

Theo Dy Khoa

Tổ Quốc

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên