MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Giải mã nhóm ngân hàng khiến nước Mỹ liêu xiêu trong thời gian vừa qua

16-05-2023 - 08:00 AM | Tài chính quốc tế

Theo cựu Chủ tịch FDIC Jelena McWilliams, mọi người “đang đánh giá quá thấp vai trò của những ngân hàng khu vực trong hệ thống tài chính”.

Trong khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, nhiều định chế tài chính lớn đã được giải cứu và từ đó cụm từ “too big too fail” – “quá lớn để sụp đổ” ra đời. Các nhà hoạch định chính sách cũng như cơ quan quản lý tăng cường luật lệ để các ngân hàng này trở nên an toàn hơn.

5 năm sau, những sóng gió vừa qua khiến 1 câu hỏi lớn khác đang nổi lên: điều gì xảy ra nếu các ngân hàng trở nên quá nhỏ để có thể sống sót?

Các ngân hàng khu vực là gì?

Gọi là nhỏ nhưng nhóm các ngân hàng này có phạm vi rất rộng. Cuộc khủng hoảng vừa qua tập trung ở các ngân hàng khu vực – những định chế tài chính có tài sản từ 10 tỷ USD đến các ngân hàng lớn có tài sản hàng trăm tỷ USD như SVB và First Republic. Cả SVB và First Republic đều có tài sản vào khoảng 200 tỷ USD, đủ để lọt top 20 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ nhưng vẫn kém xa so với top 4 – nhóm có tài sản hàng nghìn tỷ USD.

Khi JPMorgan Chase mua lại First Republic trong thương vụ được chính Cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) môi giới, thị trường đã lóe lên chút hi vọng rằng đám mây đen bao phủ các ngân hàng khu vực sẽ biến mất hoàn toàn. Bởi vấn đề của SVB và First Republic mang tính chất cục bộ, đặc biệt là lượng tiền gửi không được bảo hiểm quá lớn khiến các khách hàng lo lắng đổ xô rút tiền khi dấu hiệu bất ổn xuất hiện dù là nhỏ nhất.

Thế nhưng giông bão vẫn chưa thể qua đi. KBW Regional Banking Index gồm cổ phiếu của các ngân hàng khu vực đã giảm 30% kể từ đầu năm đến nay, trong đó giảm 9,5% kể từ ngày 1/5, khi JPMorgan giải cứu First Republic.

Không chỉ cổ đông của các ngân hàng lo lắng. Các ngân hàng khu vực là nguồn tài chính chủ chốt của nhiều doanh nghiệp nhỏ, nhóm cung cấp tới một nửa việc làm cho khu vực tư nhân. Nếu các ngân hàng này gặp vấn đề, các doanh nghiệp nhỏ sẽ càng khó vay vốn hơn. Trong khi đó các ngân hàng lớn càng nắm trong tay nhiều quyền lực hơn hoặc ngân hàng nhỏ buộc phải sáp nhập lại để tăng khả năng cạnh tranh.

Theo cựu Chủ tịch FDIC Jelena McWilliams, mọi người “đang đánh giá quá thấp vai trò của những ngân hàng khu vực trong hệ thống tài chính”.

Mắc sai lầm cơ bản

Giải mã nhóm ngân hàng khiến nước Mỹ liêu xiêu trong thời gian vừa qua - Ảnh 2.

Khách hàng xếp hàng để rút tiền gửi khỏi SVB.

Nhìn qua thì có vẻ như lãi suất siêu thấp và những gói kích thích kinh tế trong đại dịch đã tạo ra 1 cái bẫy mà những ngân hàng thiếu thận trọng dễ dàng dính vào. Đối với nhiều doanh nghiệp, lãi suất thấp và những khách hàng rủng rỉnh tiền mặt khiến công việc kinh doanh dễ dàng hơn rất nhiều. Nhưng đối với các ngân hàng, đó thực sự là 1 “con dao hai lưỡi”. Lượng tiền mặt khổng lồ mà chính phủ tung ra để giảm thiểu tác động tiêu cực từ đại dịch cần phải có đích đến và rất nhiều trong số đó đã đi tới các tài khoản ngân hàng. Vì lãi suất siêu thấp trên toàn hệ thống, các ngân hàng có rất ít áp lực.

Nhưng rắc rối xuất hiện ở phía bên kia của bảng cân đối kế toán: lãi suất thấp khiến lợi nhuận từ hoạt động cho vay và đầu tư chứng khoán sụt giảm. Nhu cầu vay vốn cũng không cao do các doanh nghiệp và người tiêu dùng đã được chính phủ trực tiếp bơm tiền. Vì thế một số ngân hàng đã tăng trưởng bằng cách đi vào thị trường ngách. First Republic tìm đến những khách hàng siêu giàu, trong khi SVB trở thành cái tên đầu tiên mà các startup công nghệ nghĩ đến khi cần vay ngân hàng.

Khi SVB và First Republic tìm cách tái đầu tư số tiền huy động được, họ đã chọn cách rất an toàn là mua trái phiếu chính phủ hay chỉ cung cấp những khoản vay thế chấp cho các khách hàng có điểm tín dụng cao. Nhưng loại tài sản này lại có thời hạn quá dài – xuất hiện sự mất cân đối giữa kỳ hạn trái phiếu và kỳ hạn tiền gửi – và khiến các ngân hàng đứng trước rủi ro lãi suất.

Khi lãi suất tăng, trái phiếu giảm giá. Các ngân hàng đặt cược rằng lãi suất sẽ không tăng quá nhanh và quá mạnh nhưng họ đã sai. Năm 2022, Fed tăng lãi suất rất mạnh để chiến đấu với lạm phát. Hiện mục tiêu lãi suất cơ bản đã lên đến hơn 5%, lần đầu tiên kể từ 2007.

Ước tính các đợt tăng lãi suất của Fed đã khiến các ngân hàng lỗ tổng cộng 620 tỷ USD trên giấy tờ tính đến cuối năm 2022. Nếu 1 ngân hàng có thể giữ những trái phiếu đang khiến họ thua lỗ đến tận ngày đáo hạn, rắc rối vẫn sẽ chỉ tồn tại trong lý thuyết. Tuy nhiên, nếu người gửi tiền bắt đầu rút tiền ra, các ngân hàng có quá nhiều rủi ro lãi suất sẽ phải bán ra trái phiếu bằng mọi giá để tránh kịch bản mất khả năng thanh toán. Đó chính là những gì đã xảy ra mùa xuân vừa qua.

Mất cân bằng về kỳ hạn là điều cơ bản nhất cần tránh khi vận hành 1 ngân hàng, nhưng cuối cùng thì cả các banker và những nhà quản lý đều không nhận ra sai lầm này.

Tại sao các ngân hàng lớn lại không rơi vào tình trạng tương tự? Một phần là do họ bị giám sát chặt chẽ hơn. Các ngân hàng lớn ở phố Wall cũng có nhiều vốn hơn để bù lỗ, đồng thời lợi thế và quy mô giúp họ dễ dàng loại bỏ những tài sản có lợi suất thấp ra khỏi bảng cân đối kế toán (bằng cách chứng khoán hóa hoặc bán tài sản).

Còn đối với nhiều ngân hàng cỡ nhỏ, họ mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn mà điểm quan trọng nhất là thiếu niềm tin. Bắt đầu với giá cổ phiếu lao dốc, tin đồn rộ lên dù tiền gửi vẫn an toàn, sau đó câu chuyện tạm lắng xuống nhưng sẵn sàng trồi lên bất cứ lúc nào.

Một cách để “hạ nhiệt” là nâng mức trần áp dụng bảo hiểm tiền gửi (hiện chỉ những khoản tiền gửi từ 250.000 USD trở xuống mới được FDIC bảo hiểm). Một số người cho rằng điều này sẽ khiến các ngân hàng liều lĩnh hơn, nhưng cũng có những tiếng nói nhận định lựa chọn tốt nhất là hãy dành ưu tiên hàng đầu cho những luật lệ giúp các ngân hàng thoát khỏi rắc rối.

Trọng tâm của cuộc tranh luận hiện nay là liệu có phải những đám mây đen đang bao trùm các ngân hàng chính là thực tại phũ phàng của quá trình thắt chặt chính sách tiền tệ hay không. Seth Carpenter, chuyên gia kinh tế đang làm việc tại Morgan Stanley phát biểu trong 1 phiên thảo luận gần đây do Fed New York tổ chức: “Trên cương vị 1 nhà hoạch định chính sách, chắc hẳn các quan chức Fed đã phải nghĩ đến những điều tồi tệ vừa diễn ra khi tính toán kế hoạch điều chỉnh chính sách tiền tệ. Nhưng vẫn luôn tồn tại những yếu tố ngoại sinh. Khi các ngân hàng gặp áp lực, không ai chắc chắn được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo”.

Tham khảo Bloomberg

Thu Hương

Nhịp sống Thị trường

Trở lên trên