Thị trường ngày 23/8: Giá dầu tăng hơn 1 USD/thùng, vàng giảm mạnh hơn 1%
Chốt phiên giao dịch ngày 22/8, giá dầu tăng hơn 1 USD/thùng, kẽm cao nhất hơn 1 tháng, cao su cao nhất hơn 2 tháng, trong khi vàng giảm mạnh hơn 1%, khí tự nhiên, nhôm, thép, đậu tương, ngô và lúa mì... đồng loạt giảm.
- 22-08-2024Thị trường ngày 22/8: Giá dầu, vàng, khí tự nhiên và nhôm đồng loạt giảm, cao su cao nhất 8 tuần
- 21-08-2024Thị trường ngày 21/8: Giá dầu thấp nhất 2 tuần, vàng vượt ngưỡng 2.500 USD/ounce
- 20-08-2024Thị trường ngày 20/8: Giá dầu giảm mạnh hơn 2 USD/thùng, nhôm cao nhất 1 tháng
Giá dầu tăng 1 USD/thùng
Giá dầu tăng hơn 1 USD/thùng, do kỳ vọng Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất trong 1 vài tuần tới, thúc đẩy giá dầu hồi phục sau 4 phiên giảm liên tiếp.
Chốt phiên giao dịch ngày 22/8, dầu thô Brent tăng 1,17 USD tương đương 1,54% lên 77,22 USD/thùng và dầu WTI tăng 1,08 USD tương đương 1,5% lên 73,01 USD/thùng.
Trong phiên ngày thứ tư (21/8/2024), biên bản cuộc họp tháng 7/2024 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cho thấy, hầu hết các quan chức của Fed đều cho rằng ngân hàng trung ương đang đi đúng hướng để cắt giảm lãi suất vào tháng tới. Lãi suất cao làm tăng chi phí vay, điều này có thể làm chậm hoạt động kinh tế và làm giảm nhu cầu dầu.
Đồng USD giảm gần đây do lo ngại nền kinh tế suy yếu đã hỗ trợ giá dầu, khi người mua dầu sử dụng tiền tệ khác thanh toán ít tiền hơn so với đồng USD.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ thấp nhất 2 tuần
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm 6% xuống mức thấp nhất 2 tuần, do tồn trữ hàng tuần cao hơn so với dự kiến và dự báo thời tiết trong 2 tuần tới sẽ bớt nóng hơn so với dự kiến trước đó.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn New York giảm 12,4 US cent tương đương 5,7% xuống 2,053 USD/mmBTU – thấp nhất kể từ ngày 6/8/2024.
Giá vàng giảm hơn 1%
Giá vàng giảm hơn 1%, chịu áp lực giảm bởi đồng USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi bài phát biểu của chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Jerome Powell để có thêm thông tin về việc cắt giảm lãi suất.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 1,2% xuống 2.482,16 USD/ounce, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.531,6 USD/ounce trong phiên ngày 20/8/2024. Vàng kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn New York giảm 1,2% xuống 2.516,7 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD tăng 0,5% so với giỏ các đồng tiền chủ chốt, sau số liệu cho thấy rằng số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ vào tuần trước tăng nhiều hơn dự kiến. Đồng thời, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng.
Giá nhôm tiếp đà giảm, kẽm cao nhất hơn 1 tháng
Giá nhôm giảm, sau khi đạt mức cao nhất 6 tuần trong đầu phiên giao dịch, do đồng USD tăng mạnh làm giảm bớt lo ngại về nguồn cung thắt chặt.
Giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,2% xuống 2.483 USD/tấn. Trong phiên có lúc đạt 2.531 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 9/7/2024. Tuy nhiên, tính từ đầu tuần đến nay, giá nhôm tăng 5% - tuần tăng mạnh nhất trong 4 tháng, trong bối cảnh nhu cầu alumina tăng mạnh – sản phẩm trung gian giữa quặng bauxite và nhôm, nguồn cung bauxite thắt chặt.
Trong khi đó, giá kẽm trên sàn London tăng 0,5% lên 2.862 USD/tấn, sau khi đạt 2.882 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 17/7/2024.
Giá quặng sắt tăng, thép giảm
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng, được hỗ trợ bởi nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – đối với lĩnh vực bất động sản, cùng với biên lợi nhuận của các nhà sản xuất thép tăng, song sự thận trọng từ các yếu tố cơ bản yếu kém đã hạn chế đà tăng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên tăng 0,41% lên 730 CNY (102,33 USD)/tấn, sau khi tăng lên 747 CNY/tấn trong đầu phiên giao dịch. Như vậy, giá quặng sắt đã tăng phiên thứ 4 liên tiếp.
Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore giảm 1,12% xuống 97,2 USD/tấn, trong bối cảnh đồng USD tăng mạnh. Trong đầu phiên giao dịch, giá quặng sắt đạt 99,9 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,69%, thép cuộn cán nóng giảm 0,55%, thép cuộn giảm 1,64% và thép không gỉ giảm 0,36%.
Giá cao su tại Nhật Bản cao nhất hơn 2 tháng
Giá cao su tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất hơn 2 tháng, được thúc đẩy bởi các dấu hiệu nhu cầu của Trung Quốc tăng mạnh và mối lo ngại về nguồn cung.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,9 JPY tương đương 0,56% lên 341,0 JPY (2,35 USD)/kg – cao nhất kể từ giữa tháng 6/2024.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải giảm 60 CNY tương đương 0,37% xuống 16.210 CNY (2.272,95 USD)/tấn.
Giá cao su butadiene kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 5 CNY tương đương 0,03% lên 14.595 CNY (2.035,14 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore giảm 0,7% xuống 174,9 US cent/kg.
Giá cà phê tăng tại Việt Nam, đồng loạt giảm tại Indonesia, London và New York
Hoạt động giao dịch thị trường cà phê Việt Nam tiếp tục diễn ra khá trầm lắng, do nguồn cung vào cuối vụ thu hoạch thấp, trong khi giá cà phê tại Indonesia giảm.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức cộng 250-350 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 118.500-119.300 VND (4,75-4,79 USD)/kg, tăng so với 116.900 – 118.000 VND/kg 1 tuần trước đó.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London, giảm so với mức cộng 320 USD/tấn trên sàn London một tuần trước đó.
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 58 USD tương đương 1,3% xuống 4.574 USD/tấn, giảm từ mức cao nhất 1 tháng (4.658 USD/tấn) trong phiên trước đó.
Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 2,5% xuống 2,429 USD/lb.
Giá đường tiếp đà tăng
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE tăng 0,2 US cent tương đương 1,1% lên 17,85 US cent/lb, hồi phục từ mức thấp nhất gần 2 năm (17,52 US cent/lb) trong phiên ngày 20 và 21/8/2024.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London tăng 1,3% lên 512,1 USD/tấn.
Giá đậu tương, ngô và lúa mì đồng loạt giảm
Giá lúa mì trên sàn Chicago giảm, do giá lúa mì khu vực Biển Đen giảm và đồng USD tăng mạnh, làm giảm sức cạnh tranh đối với lúa mì Mỹ.
Trên sàn Chicago, giá ngô giảm 4-3/4 US cent xuống 3,93-1/2 USD/bushel, giá đậu tương giảm 20 US cent xuống 9,61-1/2 USD/bushel. Giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 8-1/2 US cent xuống 5,35-1/2 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp 5,26-1/4 USD/bushel trong đầu phiên giao dịch.
Giá gạo đồng loạt tăng tại Ấn Độ, Việt Nam và Thái Lan
Giá xuất khẩu gạo tại các trung tâm lớn châu Á tăng, với gạo Việt Nam tăng lên mức cao nhất gần 3 tháng do nguồn cung thắt chặt, song nhu cầu đối với mặt hàng chủ lực này yếu đã hạn chế đà tăng.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 540-545 USD/tấn, tăng so với 536-540 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Ấn Độ đã tăng giá mua lúa vụ mới của nông dân thêm 5,4% lên 2.300 rupee/100 kg.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 578 USD/tấn, tăng so với 570 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm ở mức 570 USD/tấn, tăng nhẹ so với 567 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá dầu cọ tăng phiên thứ 2 liên tiếp
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 2 liên tiếp, được củng cố bởi kế hoạch tăng cường sản xuất nhiên liệu sinh học của Indonesia.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 72 ringgit tương đương 1,92% lên 3.826 ringgit/tấn – phiên tăng mạnh nhất kể từ ngày 2/7/2024.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 23/8
Nhịp sống thị trường